50 năm ấy, bây giờ là đây …

50 NĂM ẤY …

Nhân kỷ niệm Thành lập Trường, xin được chia sẻ đôi điều từ góc độ cá nhân.

THUỞ XƯA …

Chúng tôi về Trường năm 1979.

Có thể gọi lứa chúng tôi là những viên gạch tiếp theo, góp phần xây dựng Khoa phát triển hơn, trên cơ sở những người đầu tiên đặt nền móng cho Khoa là các chị Đỗ Tự Tuyết, Nguyễn Thị Hạnh Kiểm, Nguyễn Hoà Bình, anh Ngô Ngọc Đạt và những người thuộc đợt thứ hai như các cô Nguyễn Thj Lý, Nguyễn Thị Ánh, Nguyễn Thu Giang, thầy Trần Ngọc Dung, anh Lương Vĩnh An, …

   Mặc dầu Khoa và Trường còn non trẻ, nhiều công việc phải làm nhưng công việc chuyên môn, bồi dưỡng chất lượng đội ngũ luôn được coi trọng. Giáo viên mới về Trường, sau khi nhận phân công chuyên môn đều được tạo điều kiện đến các trường Đại học lớn để soạn bài giảng dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo đầu ngành.

   Cán bộ giảng dạy lúc bấy giờ phần lớn còn rất trẻ, mới ra trường, chưa có gia đình. Sức trẻ, tuổi trẻ nên rất nhiệt tình, xông xáo với mọi công việc của Khoa và Trường.

   Cuộc sống thời bao cấp khó khăn, thiếu thốn nhiều bề, nhưng là hoàn cảnh chung của cả nước, ai cũng như nhau nên hầu như mọi người đều chấp nhận và tìm cách khắc phục, cải thiện chứ ít có đòi hỏi về vật chất. Giờ nhìn lại, thấy phẩm chất này thật đáng quý, nếu không, đã không có được thế hệ thầy cô hết lòng vì sự nghiệp trồng người của những năm sau 1975 và nhất là thập niên 1980.

   Mỗi giáo viên đều nghiêm túc, chăm chút từng bài giảng của mình. Tổ, Khoa, Công đoàn, Đoàn thanh niên đều có kế hoạch dự giờ để sát sao tình hình dạy học của giáo viên và sinh viên; biểu dương, phát huy những giờ dạy, những cá nhân tiêu biểu hoặc góp ý kịp thời những điểm cần điều chỉnh. Hàng năm, Khoa cũng hay tổ chức Hội thảo. Ngoài những bài tham luận về chuyên môn, còn là những bài viết mang tính chất chủ đề, như Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Sinh nhật Bác 19/5, Anh bộ đội Cụ Hồ dịp 22/12, người phụ nữ Việt Nam nhân ngày 8/3, … Thỉnh thoảng, Khoa cũng mời các GS đầu ngành về chuyên đề cho cán bộ giảng dạy trong Khoa.

   Hơn 30 năm gắn bó với mái trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Nam – Đà Nẵng, rồi Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, biết bao kỷ niệm, biết bao ân tình, khó mà kể hết được.

   Nhớ những ngày mới về trường, chúng tôi đưa sinh viên đi sưu tầm Văn học dân gian ở Gò Nổi, Điện Bàn. Thời ấy, người dân ở các vùng thôn quê còn rất nghèo, công việc đồng áng lam lũ và bận rộn. Vậy mà chúng tôi vẫn phải tìm cách tiếp cận, trò chuyện, khơi gợi để có thể khai thác được vốn quý văn học truyền miệng còn lưu giữ trong các thế hệ ở làng quê. Có những lúc chúng tôi cùng xay lúa, cùng giã gạo, thậm chí có khi còn ra cả ngoài đồng, tranh thủ chút nghỉ ngơi uống nước, ăn củ khoai củ sắn của người dân để khai thác được nhiều nhất. Ngày thì đi mỏi chân, tối về lại leo lét với ngọn đèn dầu để đọc, bổ sung, phân loại, chép lại cho sạch đẹp theo từng thể loại, để bớt vất vả khi về trường, trước khi nộp cho Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam – Đà Nẵng. Vậy mà khi sách được xuất bản, không thấy một dòng nào nhắc đến khoa Văn cả. Một kiểu đóng góp thầm lặng.

   Nhớ những đợt đưa sinh viên đi TTSP ở Thăng Bình, Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Tam Kỳ. Có năm vừa làm trưởng đoàn TTSP ngắn hạn ở một trường vừa phụ trách TTSP dài hạn đối với sinh viên khoa Văn của một số trường. Lại có năm vừa làm trưởng đoàn TTSP tại một trường lại vừa làm trưởng cụm phụ trách TTSP của một cụm trường.

   Ngay trong năm học đầu tiên, mình được phân công đưa sinh viên về TTSP ở trường cấp 2 Bình Tú (Thăng Bình). Đây vốn là trường học của đạo Tin lành. Đi tiền trạm về, thấy có những khó khăn so với các trường khác nên mình quyết định họp đoàn trước khi nghỉ Tết và sau Tết thì tổ chức mua vé tập thể, cô trò cùng về trường, trừ một số em ở gần điểm thực tập hoặc ngược đường.

   Ngày về trường, ông Linh mục không tiếp đoàn. Tất cả đồ đạc được gom lại một chỗ, cô trò quây quần với nhau bên vệ đường quốc lộ. Trời thương nên đã cho mây che nắng xuống. Gạo nhận từ trường, mang theo, nhưng không thể có cơm để ăn. Cũng may vừa Tết xong nên các loại bánh tét, bánh tổ, bánh in, bánh thuẫn, … mang theo đều đem ra dùng bữa trưa. Nhìn các em ngồi ăn mà lòng những nghẹn ngào. Về lại Trường thì không thể, chỉ còn cách phải nói khó với ông Linh mục thôi. Mấy tiếng đồng hồ ngồi ngoài đường và việc ăn bánh Tết thay cơm, xem như là khổ nhục kế để thuyết phục ông Linh mục. Đến chiều muộn thì ông đã cho mượn cái nồi và được nhờ luôn cái bếp trấu để cô trò nấu cơm tối. Chúa nhân từ đã rủ lòng thương! Chút một, chút một, cuối cùng ông Linh mục cũng đã chỉ giúp một số nhà dân xung quanh để mượn cho sinh viên vào ở. Suốt thời gian TTSP, những lúc rảnh rỗi hoặc chủ nhật, mình ghé nhà ông Linh mục chơi, phụ giúp việc nhà với vợ ông, chỉ vẽ bài vở cho các con của ông (Linh mục đạo Tin lành được phép có gia đình vợ con).

   Khi Thầy Đoàn Hiến đến thăm đoàn, sau khi hỏi han tình hình ăn ở, công việc thực tập của sinh vên, Thầy có nói chuyện với ông Linh mục khá lâu. Ra về, Thầy nhìn mình vui vẻ nói: “Cô làm tốt lắm!”. Mình cảm thấy nhẹ nhõm.

   Hết đợt thực tập, chia tay trường cấp 2 Bình Tú, bên đoàn bên trường đều rất vui. Ông Linh mục lên phát biểu chia tay khá cảm động. Thế mới biết, không phải lúc nào khó khăn cũng đều là trở ngại.

   Một buổi sáng sớm, lúc còn nằm trên giường đã nghe loa phát thanh của Trường đọc bản tin sáng. Trong số những người làm trưởng đoàn TTSP được khen, có tên mình. Trời lạnh nhưng lòng thấy ấm áp.

   Thường sáng sớm, mọi người hay gặp nhau ở giếng nước, ruộng rau muống. Người gánh nước ăn, người giặt quần áo, người tưới rau, người hái rau mang ra chợ bán. Cái giếng nước là nơi sinh hoạt tập thể mỗi sáng mỗi chiều của cư dân khu tập thể ở Hoà Khánh. Mình thì hay băng qua đường, gánh nước ăn ở xóm bà Mai chị Thắng. Giếng này nước ngọt và khá sâu nên nước thường xuyên trong. Về sau, những mảnh đất vốn là ruộng rau muống ấy đã trở thành khu ký túc xá của sinh viên và những ngôi nhà tầng khang trang của các thầy cô giáo trong Trường.

   Nhớ những đợt đi lao động làm cỏ dứa ở Nông trường 29/3. Bàn tay quen cầm bút cầm phấn phải làm cỏ dứa, không khỏi có chút lóng ngóng, vụng về. Trưa về bưng bát cơm ăn, chiều lại đi tắm, đêm xuống nằm ngủ, mới thấy thương đôi bàn tay của thầy cô giáo biết nhường nào. Nắng thì xước xát, đau rát. Lạnh thì sưng, nhức. Bữa ăn cũng rất đạm bạc. Trưa thì bo bo độn cơm với chút cá khô, dứa chấm nước mắm và canh rau tập tàng. Chiều thì sắn cõng cơm, chút khô cá, nước mắm trộn dứa và canh rau lộn xộn. Vậy nhưng ai cũng cố gắng hoàn thành công việc, để tránh bị nhắc nhở.

   Cũng không thể quên mỗi lần xe chở thực phẩm của Trường từ cơ sở Hồng Đức ra Hoà Khánh là Công đoàn các Khoa đến để cùng chia và nhận phần của Khoa mình về chia lại cho các công đoàn viên trong Khoa. Có lần 4g sáng mình đạp xe từ khu Mẫu giáo xuống Trường, nhận cá về cho Khoa. Trời tối đen, tiết trời lạnh, đường vắng người. Lúc đi thì sợ ma, khi về thì sợ ăn trộm. Nếu chẳng may bị nẫng mất cái giỏ cá thì không biết lấy gì mà đền. Cái thời mà mọi thứ đều phân phối theo tiêu chuẩn trong tem phiếu, thật chẳng dễ dàng gì.

   Trong xu thế thành lập Đại học Quốc gia, Đại học Vùng, năm 1994, Cao đẳng Sư phạm Quảng Nam – Đà Nẵng được chung nhà cùng các trường đàn anh Đại học Bách Khoa, Đại học Kinh tế trong Đại học Đà Nẵng, nâng cấp lên thành Đại học Sư phạm và tuyển sinh, đào tạo giáo viên Trung học Phổ thông. Thuận lợi có, nhưng khó khăn cũng không ít. Cả Trường chuyển mình, chuyển đổi, học tập, bồi dưỡng, nghiên cứu, xây dựng, chỉnh trang để xứng đáng với vai trò, nhiệm vụ mới.

  50 NĂM ẤY, BÂY GIỜ LÀ ĐÂY

   Bằng sự nỗ lực, vươn mình của đội ngũ CBGD, với sự nhiệt tình, trách nhiệm, quyết tâm, sáng tạo của các thế hệ lãnh đạo Nhà trường, ngày nay, cùng với Nhà trường, khoa Văn đã lớn mạnh hơn rất nhiều. Nhiều ngành học mới được mở, ở cả bậc Đại học và sau Đại học. Cơ sở vật chất của Trường cũng khang trang hơn, đàng hoàng, to đẹp hơn. Cảnh quan, khuôn viên Trường luôn sạch đẹp, cây cối xanh tươi bốn mùa. Giờ đây có thể nói, Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng là một trong những địa chỉ đáng tin cậy cho các cháu muốn đến học tập nơi thành phố đáng sống. Là địa chỉ uy tín cho những đơn vị muốn trao đổi, giao lưu, hợp tác về văn hoá, khoa học với Nhà trường. 50 năm, từ những ngày gian khó đầu tiên, thành quả có được như ngày hôm nay, thật đáng tự hào.

   30 năm, tính từ ngày mang tên Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, thời gian chưa đủ dài, nhưng Trường đã có những thành tựu đáng kể cả về đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, có thể sánh vai cùng các trường Đại học Sư phạm lớn trong nước.

   30 năm, độ tuổi đang xoan, với đội ngũ CBGD trình độ cao, đội ngũ lãnh đạo trẻ, có tâm có tầm, hy vọng Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng sẽ phát triển bền vững và lớn mạnh về mọi mặt, để có thể sánh vai cùng các trường Đại học lớn trong cả nước.

   (Đà Nẵng, tháng 5/2025 –  Vũ Minh An – Cựu CBGD khoa Ngữ văn)